MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 2
I. Đặc điểm địa chất thủy văn 4
II. Hiện trạng khai thác nước dưới đất trong khu vực 8
III. Dự báo hạ thấp mực nước dưới đất và tác động môi trường 10
IV. Thiết kế công trình khai thác nước 13
V. Lựa chọn công nghệ xử lý nước 16
II. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT TRONG KHU VỰC
II.1. Hiện trạng khai thác nước dưới đất
1. Tóm tắt hiện trạng khai thác nước
Vùng lân cận nhà máy hiện có nhiều nhà máy, cơ sở khai thác đang hoạt động. Do chưa có hệ thống cấp nước sạch nên hầu hết các nhà máy đều phải tự tổ chức khoan khai thác nước ngầm phục vụ cho nhu cầu sản xuất của mình. Mỗi nhà máy thường có 1 – 2 lỗ khoan khai thác nước. Trong khu vực tỉnh Hưng Yên hiện đang có hàng chục giếng khoan khai thác nước riêng lẻ của các nhà máy, xí nghiệp với tổng lưu lượng khoảng 3.500 m3/ngày đêm. Tất cả các lỗ khoan trong vùng đều khai thác nước ở độ sâu 55 – 100 m trong tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen Hệ tầng Hà Nội (Ngoại trừ giếng khoan của Công ty Lavie khoan sâu trên 340 m).
Các giếng dạng Unicef trong vùng rất nhiều, trung bình 50 % số hộ gia đình có giếng khoan kiểu này, tổng số ước tính có tới hàng vạn giếng với tổng công suất khai thác khoảng 5000 m3/ngày đêm. Phần lớn giếng khoan dạng Unicef khai thác trong tầng nước nông độ sâu 12 – 40 m.
Tất cả các giếng khoan khai thác trong vùng đều khai thác nước nhạt. Chất lượng nước khá tốt, tuy nhiên nhiều nơi nước có hàm lượng sắt và mangan khá cao, để phục vụ sinh hoạt cần được xử lý.
Thời gian tới trong vùng sẽ có nhiều giếng được khoan thêm, khối lượng nước dưới đất được khai thác thêm ước tính khoảng 10.000 m3/ngày đêm, nâng tổng lượng nước dưới đất sẽ được khai thác trong vùng lên khoảng 40.000 m3/ngày đêm.
2. Hiện tượng biến đổi mực nước, chất lượng nước, sụt lún mặt đất trong khu vực do các công trình khai thác nước gây ra
Do trong vùng có nhiều giếng khoan đang hoạt động nên mực nước tĩnh tại một số điểm đã có dấu hiệu hạ thấp cục bộ nhưng không đáng kể. Mực nước tĩnh của tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen phụ hệ tầng Hà Nội trên toàn vùng nghiên cứu hiện nay đang dao động trong khoảng 0,81 m đến 2,15 m dưới mặt đất (tuỳ theo từng vị trí). Khảo sát tại giếng khai thác nước tại nhà máy Lavie và nhà máy Thực phẩm Đông Nam Á cho thấy, khi giếng khoan khai thác hoạt động với công suất 840 – 900 m3/ngày đêm thì mực nước động trong giếng đạt mức 3,05 m. Mực nước tại nhiều giếng vùng phụ cận hầu như không bị hạ thấp. Điều đó cho thấy, hiện tại chưa có hiện tượng hạ thấp mực nước dưới đất trên diện rộng do các công trình khai thác nước trong vùng gây ra.
Tham khảo kết quả phân tích mẫu nước của các nhà máy xí nghiệp trong vùng và qua kết quả khảo sát thực tế cho thấy hiện tại cũng chưa có hiện tượng biến đổi chất lượng nước dưới đất và sụt lún mặt đất do các công trình khai thác nước dưới đất trong vùng gây ra.
II. 2. Các nguồn thải, chất thải có khả năng gây ô nhiễm trong khu vực
1. Nguồn gây ô nhiễm từ các làng nghề
Theo báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm của tỉnh Hưng Yên, trong vùng hiện có một số làng nghề tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường trong vùng. Điển hình là làng nghề tái chế nhựa Minh Khai và làng nghề tái chế chì Đông Mai.
Hầu hết nước thải từ các làng nghề đều thải ra hệ thống thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải. Hiện nay, trong khu vực phần lớn các ao hồ tại các làng nghề đều bị san lấp để xây nhà ở, vì vậy gây ứ đọng nước nhiễm bẩn làm ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Từ đó làm cho nguy cơ làm nhiễm bẩn nguồn nước ngầm trong tỉnh do các làng nghề gây ra là rất lớn.
2. Nguồn gây ô nhiễm từ phân bón và thuốc bảo vệ thực vật
Để đạt mục tiêu tăng năng suất cây trồng con người đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến, trong đó có việc tăng cường sử dụng hoá chất, phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt chuột, chất kích thích tăng trưởng. Tất cả các biện pháp này ít nhiều đều có tác động nguy hại đến môi trường trong vùng.
Theo thống kê của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Hưng Yên thì lượng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật hàng năm sử dụng tại Hưng Yên khoảng 201.000 kg các loại.
3. Nguồn gây ô nhiễm từ các khu công nghiệp và các khu dân cư
Hệ thống thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải trước khi chảy đến khu vực nghiên cứu đã chảy qua một loạt các khu công nghiệp khác. Mặt khác, quanh khu vực nhà máy có nhiều cụm dân cư, nhà máy công nghiệp khác có khả năng gây ô nhiễm nước mặt và tầng nước ngầm nông.
Qua phân tích mẫu nước của Sở Tài nguyên và Môi trường cho thấy các chỉ tiêu: cặn lơ lửng, BOD, COD, Coliforms trong nước mặt của hệ thống thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải tại Khu CN Phố Nối A, đều cao hơn TCVN 5942 – 1995.
III. DỰ BÁO HẠ THẤP MỰC NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÀ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1. Tính dự báo hạ thấp mực nước do công trình gây ra cho các giếng xung quanh
Giếng khai thác nước của nhà máy nằm cách xa các giếng xung quanh khoảng 200 m. Để đánh giá ảnh hưởng của giếng khai thác đến các giếng xung quanh, chúng tôi coi giếng khai thác và các giếng xung quanh là một giếng lớn với bán kính r = 100 m. Sau đó tiến hành đánh giá ảnh hưởng tương tác giữa các giếng nhỏ trong giếng lớn với nhau.
Mực nước hạ thấp do giếng khai thác gây ra tại vị trí cách giếng khai thác 200 m được tính theo công thức:
Trong đó:
+ Q: lưu lượng giếng khai thác 220 m3/ngày đêm.
+ S: mực nước hạ thấp.
+ Km: hệ số dẫn nước: 252 m2/ngày đêm.
+ Rdd: bán kính ảnh hưởng dẫn dùng của giếng khai thác trong hệ thống giếng lớn.
+ r: khoảng cách giữa giếng khai thác với giếng xung quanh
Trong đó F là diện tích của hình bao quanh giếng khai thác giới hạn bởi các đường thẳng chạy qua trung điểm khoảng cách giữa giếng khai thác với các lỗ xung quanh. Trường hợp này F = 100x100 = 10000 m2.
Từ công thức trên ta có Rdd = 26,52m.
Với r = 100 m, thay vào công thức trên ta tính được mực nước hạ thấp do giếng khoan gây ra tại các giếng xung quanh là -0,1845m. Có thể nói ảnh hưởng không đáng kể